Nguồn: FB Duc Pham.
ĐÔNG CÁC ĐẠI HỌC SĨ (東閣 大學士) TRẦN LƯU HUỆ (TUỆ) (1830-1907)
Dưới đây chúng tôi xin cung cấp bản dịch chữ Quốc Ngữ từ bản gốc chữ Hán về bản lý lịch của cụ Trần Lưu Huệ. Đây là một trong những bản dịch từ công sức làm việc miệt mài của bác Trần Lưu Cung hiện đang sinh sống tại Hoa Kỳ (là cậu ruột của GS Ngô Bảo Châu). Ông là gười đã cất công đi sưu tầm tư liệu để chứng minh về thân thế trong sáng và sự nghiệp lớn lao của cụ Trần Lưu Huệ, người làm quan lớn trong khoảng thời gian rối ren cuối triều Nguyễn, người đã khai sinh ra dòng họ Trần Lưu (một nhánh của họ Trần Đình ở làng Vĩnh Xương, xã Điền Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên).
Bản dịch hiện được lưu tại nhà ông Trần Bội (Xóm 2, làng Vĩnh Xương).
Bản dịch chỉ ghi mốc thời gian và các chức quan ông từng đảm nhận. Tôi có chú thích thêm trong dấu [ ] cho rõ nghĩa, để cho người đọc dễ hiểu hơn về các chức quan cũng như các từ Hán-Việt.
BẢN DỊCH
Thái tử thiếu bảo Hiệp biện Đại học sĩ lãnh Tổng đốc Định – Ninh: Trần Lưu Tuệ
Sinh năm: Nhâm Thìn 69 tuổi.
Quê quán: xã Vĩnh Xương - tổng Vĩnh Xương - huyện Phong Điền - phủ Thừa Thiên.
- Tự Đức năm thứ 8 (1855) khoa Ất Mão, năm thứ 11 (1858) khoa Mậu Ngọ, năm thứ 17 (1864) khoa Giáp Tý đều thí trúng Tú tài. [3 lần ông đỗ Tú tài, những ai thi đỗ 3 trường trong kì thi Hương gọi là Tú tài: trường nhất thi Kinh nghĩa; trường nhì thi Chiếu-Biểu-Luận; trường ba thi Thơ phú].
- Năm thứ 20 (1867) khoa Đinh Mão trúng Cử nhân. [ai thi đậu tứ trường trong kì thi Hương gọi là Cử nhân; như vậy ông đã thi đậu trường tư với thể loại Văn sách với luận đề về Lịch sử hay Kinh truyện, sau đó được ghi tên vào bảng vàng].
- Năm thứ 22 (1869) được bổ thụ Điển tịch lãnh Biên tu sung Hành tẩu Cơ mật viện. [Điển tịch: Chức hàm Hàn Lâm Viện dành cho quan văn ở trật chánh Bát phẩm; Biên tu: Người chắp bút viết nên sử sách hay công trình; Hành tẩu: chức quan , dành cho người mới thi đậu Cử nhân, tập việc tại các đơn vị của Bộ hay các đơn vị ở Kinh đô; Cơ mật viện: Cơ quan dự bàn những việc trọng yếu của quốc gia.]
- Năm thứ 24 (1871) về quê chịu tang.
- Năm thứ 25 (1872) hết hạn được quyền sung Chủ sự vẫn sung Hành tẩu viện ấy. [Chủ sự: Người đứng đầu các Ty thuộc 6 Bộ, quan văn-chánh lục phẩm; vẫn sung Hành tẩu viện ấy: vẫn làm việc ở Viện Cơ mật]
- Tháng giêng năm thứ 26 (1873) được thực thụ chức Biên tu vẫn lãnh (chức Chủ sự). [Chính thức nhậm chức Biên tu Viện cơ mật].
- Tháng 7 quyền sung Viên Ngoại lang. [Viên ngoại lang (員外郎): Chức hàm quan văn, trật chánh Ngũ phẩm, làm việc ở Ty Thanh lại]
- Tháng giêng năm thứ 27 (1874) được bổ thụ Tu soạn, vì năm thứ 26 thừa tá công việc ở Cơ mật viện có công lao được gia thưởng thăng Thị giảng lãnh Viên Ngoại lang vẫn sung (Hành tẩu viện ấy). [Tu soạn: Chức quan thuộc biên chế Hàn Lâm Viện, chuyên soạn Văn từ, sắc mệnh và các sách vở khác; Thị giảng: cũng là chức quan thuộc Hàn Lâm Viện, chánh Ngũ phẩm].
- Tháng 10 phụng sung vào trường thi võ Hà Nội, việc xong khâm phụng phái đi khám sát các tỉnh từ Bình Trị trở ra Bắc.
- Tháng 12 năm thứ 29 (1876) được các viên Tổng đốc Phạm Phú Thứ, Tuần phủ Nguyễn Tăng Doãn tỉnh Hải Dương, Bố chánh sứ tỉnh Thanh Hoá Trương Quang Đàn nhiều lần tấu trình tiến cử có thế kham được chức Án sát tỉnh lớn. Khâm chuẩn cho đăng ký liệt vào danh sách đợi bổ chức khuyết. [Tổng đốc (總督): Chức quan đứng đầu liên tỉnh; Tuần phủ: (巡撫). Chức quan đứng đầu 1 tỉnh; Án sát sứ: người đứng đầu Ty Án sát sứ, chuyên về hình án].
- Tháng 8 năm thứ 30 (1877) công cán trở về được hưởng thụ Lang trung [Lang trung (郎中): là chức quan đứng đầu một ty hoặc ty Thanh lại, trật Chánh tứ phẩm].
- Ngày 22 tháng đó khâm phụng dụ chuẩn cải thụ Hồng lô tự khanh Tá lý, chuyên giám sát việc Tào chính Bộ Hộ, kiêm Tham tá công việc nha Thương bạc. [Hồng lô tự khanh (鴻臚寺): trật Chánh tứ phẩm, Hồng lô tự Thiếu khanh trật Chánh ngũ phẩm. Chuyên lo việc nghi lễ trong các khoa thi như xướng danh, yết bảng; Tá Lý: Quan văn thuộc Phủ Tôn Nhơn, trước gọi là Biện lý; Tào Chính Bộ Hộ: Giám sát vận tải đường thủy ở Bộ Hộ (như Bộ Kinh tế-Tài chính)].
- Tháng 11 phụng chuẩn đổi làm Tá lý Bộ Binh vẫn kiêm (Tham tá công việc nha Thương bạc).
- Tháng 12 phụng chuẩn đổi làm Tá lý Bộ Lại vẫn kiêm (Tham tá công việc nha Thương bạc).
- Tháng giêng năm thứ 31 (1878) phụng chuẩn đổi làm Tá lý Bộ Công vẫn kiêm (Tham tá công việc nha Thương bạc).
- Tháng 2 khâm phụng dụ chuẩn cho giữ hàm Hồng lô tự khanh điều lãnh Bố chánh sứ tỉnh Bình Thuận. [ Bố chánh sứ: người đứng đầu ty Bố chính: phụ trách các vấn đề tài chính, hành chính như thuế khóa, đinh điền, đê điều, hộ tịch lẫn trọng trách truyền đạt chính sách và chủ trương của triều đình, trật Chánh tam phẩm]
- Tháng giêng năm thứ 33 (1880) khâm phụng Dụ chuẩn thăng Thự Bố chánh sứ.
- Tháng 3 khâm phụng Dụ chuẩn quyền lãnh Tuần phủ Thuận-Khánh. [người đứng đầu Bình Thuận – Khánh Hòa].
- Tháng giêng năm thứ 36 (1883) khâm phụng Dụ chuẩn cho thực thụ chức Bố chánh sứ vẫn quyền lãnh Tuần phủ Thuận-Khánh. [Chính thức nhận chức Bố chánh sứ].
- Tháng 11 khâm phụng Dụ chuẩn cho lấy nguyên hàm Bố chánh quyền lý Tổng đốc An-Tĩnh. [Tổng đốc: người đứng đầu liên tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh]
- Tháng giêng năm Kiến Phúc 1 (1884) chính thức nhậm chức.
- Tháng 6 khâm phụng Dụ chuẩn cho giữ nguyên hàm sung Tổng đốc Bình-Phú. [Bình Định-Phú Yên].
- Tháng 7 khâm phụng Dụ chuẩn thăng thự Tuần phủ vẫn quyền lãnh Tổng đốc Bình-Phú.
- Tháng 3 năm Hàm Nghi 1 (1885) khâm phụng Dụ chuẩn điều làm thự Hữu Tham tri Bộ Lại sung Tham tá Cơ mật viện. [Đứng đầu mỗi bộ là Thượng thư, giúp việc có Tả Thị lang, Hữu Thị lang (thời Lý - Trần - Lê) hoặc Tham tri (thời Nguyễn). Dưới Tham tri là Thị lang; Bộ Lại (Bộ Nội vụ) hoặc Lại bộ là bộ giữ việc quan tước, phong tước, ân ban thuyên chuyển, lựa chọn, xét công, bãi truất và thăng thưởng, bổ sung quan lại, cung cấp người cho các nha môn].
- Tháng 5 khâm phụng Dụ chuẩn đổi làm thự Tuần phủ lãnh Tổng đốc An - Tĩnh.
- Tháng 11 năm Ất Dậu (1885 - Đồng Khánh) khâm phụng Dụ chuẩn cho thực thụ chức Tuần phủ vẫn lãnh (Tồng đốc An - Tĩnh).
- Tháng giêng năm Đồng Khánh 1 (1886) khâm phụng Dụ chuẩn cho về Kinh đợi chỉ.
- Tháng 3 năm đó khâm phụng chuẩn cho phép đến tỉnh Hà Nội thăm hỏi thân quyến 1 tháng, xong việc đáp riêng hoả thuyền về Kinh đợi hầu.
- Tháng 6 khâm phụng Dụ chuẩn cải thụ Tả Tham tri Bộ Hộ. [Bộ Hộ thời Nguyễn giữ chính sách điền thổ, hộ khẩu, tiền thóc, điều hòa nguồn của cải nhà nước, ngoài ra bộ Hộ còn được xem là Bộ Lao động]
- Tháng 8 khâm phụng Dụ chuẩn kiêm quản Ấn triện ở Đô sát viện. [Đô sát viện: là cơ quan độc lập tại trung ương, trực thuộc sự điều hành của vua, và không phụ thuộc vào bất kỳ cơ quan nào trong hoạt động giám sát của mình có các quyền như: Quyền đàn hạch, nghĩa là quyền vạch rõ các tội lỗi, vi phạm của các quan lại từ bá quan đến các hoàng thân, hoàng tử; Quyền tấu trình trực tiếp với vua; Quyền ghi chép các lời nói, hành động của vua và quan chức trong các ngày hội triều (gồm các phiên đại triều, phiên thường triều, và phiên ngự điện thính), nghe chính sự, tài liệu ghi chép nộp cho Quốc sử quán làm tư liệu; Quyền kiểm tra các bộ, nha trong triều như việc tế tự,thiết triều, ngoại giao, trường thi, kho tàng,..; Quyền phúc duyệt các bản án]
- Tháng 9 phụng chuẩn sung khâm sai Chủ khảo trường thi Hương ngạch văn ở Hà Nam, việc xong tháng 12 trở về Bộ làm việc. [Chủ khảo: người chịu trách nhiệm tổ chức và giám sát một kì thi].
- Tháng giêng năm Đồng Khánh 2 (1887) khâm phụng Dụ chuẩn vẫn kiêm quản Ấn triện ở Đô sát viện.
- Tháng 9 phụng chuẩn đến nha Kinh lược, uỷ cho tuỳ việc giải quyết, khi có chức khuyết sẽ chọn bổ. [Nha Kinh lược : được thiết lập nhằm thay mặt vua trực tiếp đi điều hành và giải quyết mọi việc ở một xứ rộng lớn ví như Bắc Kì]
- Tháng 7 năm Đồng Khánh 3 (1888) phụng Chỉ chuẩn thăng thụ Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên.[ trông coi các tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang - thuộc Bắc kỳ]
- Tháng 11 năm đó phụng chuẩn quyền lý Kinh lược sứ Bắc kỳ. [Kinh lược sứ: người thay mặt nhà Vua đi về địa phương để xem xét và trực tiếp xử lý tình hình].
- Tháng 2 năm Thành Thái 1 (1889) được thưởng Long bội tinh Tứ hạng, Tam hạng.
- Tháng 7 năm Thành Thái 2 (1890) cải thụ Tổng đốc Hà Yên lại được thưởng Long bội tinh Nhị hạng.
- Tháng 4 năm Thành Thái 4 (1892) vi có công trù tính việc tiễu dẹp phỉ ở Cự Đà năm thứ 3 được thưởng Kim khánh Nhị hạng.
- Tháng giêng năm Thành Thái 5 (1893) phụng Dụ chuẩn thăng thự Hiệp biện Đại học sĩ vẫn lãnh (Tổng đốc Hà Yên).
- Tháng 8 được thưởng Bắc đẩu bội tinh Ngũ hạng.
- Tháng giêng năm Thành Thái 6 (1894) được thực thụ Hiệp biện Đại học sĩ. [Hàm quan văn, trật tòng nhất phẩm, sau đổi là Hiệp tá Đại học sĩ vì kiêng húy vua Đồng Khánh].
- Tháng 4 nhận được tư văn của Bộ Lại xem xét việc nâng bậc nhưng xét vừa mới được thăng nên hủy bỏ hồ sơ, còn việc được thưởng quân công 1 bậc vẫn cho ghi vào hồ sơ.
- Tháng 8 cho giữ nguyên hàm, sung làm Thương tá nha Kinh lược Bắc kỳ. [Thương tá, chức quan văn, chánh Ngũ phẩm, lúc đầu gọi là Thương biện sau đổi gọi là Thương tá vì kị húy vua Đồng Khánh].
- Tháng 12 năm Thành Thái 8 (1896) được Đại sứ thần Hoàng Cao Khải tấu trình xin gia tặng Thái tử Thiếu bảo. [Đây là một tước hiệu được vua ban như một hình thức vinh danh, tưởng thưởng không phải là tước hiệu hay quyền lợi].
- Tháng 7 năm Thành Thái 9 (1897) khâm phụng Dụ chuẩn cho y tấu. [Chính thức được vua ban Cung hàm Thái Tử Thiếu Bảo]
- Tháng đó xóa bỏ nha Kinh lược nên được sung làm Duyệt biện Tòa án phủ Thống sứ.
- Tháng 10 nhân gặp đại lễ Thất tuần của Trang Ý Thuận Hiếu Thái hoàng Thái hậu [莊懿順孝太皇太后] nên được ban thưởng các hạng ngân tiền và áo gấm hoa kiểu Tây dương.[Trang Ý Thuận Hiếu Thái hoàng Thái hậu thụy hiệu Lệ Thiên Anh hoàng hậu, tên thật là Vũ Thị Duyên, là vợ chính vua Tự Đức con của đại thần Vũ Xuân Cẩn]
- Ngày mồng 5 tháng 9 năm thứ 10 cho giữ nguyên hàm lãnh Tổng đốc Định-Ninh. [Nam Định-Ninh Bình]
- Tháng 5 năm thứ 11 (1899) nhân gặp địa lễ Cửu tuần của Từ Dụ Bác Huệ Khang Thọ Thái hoàng Thái hậu nên được ban thưởng 1 chiếc áo gấm đoạn hoa ngũ sắc dát vàng ngọc và 1 chiếc Kim khánh Tam hạng. [Từ Dụ Thái hoàng thái hậu (慈裕太皇太后) hay gọi là Thái hậu Từ Dũ, bà là Quý phi của Thiệu Trị và thân mẫu của Tự Đức]
Ngày mồng 9 tháng 2 năm Thành Thái thứ 13 (1901).
Trần Lưu Tuệ ký.
- Hai tháng sau, ngày 09 tháng 4 năm Thành Thái thứ 13 (1901), cụ được phong tặng Đông Các Đại Học Sĩ (東閣殿大學士) [Đây là 1 trong 4 vị quan đầu triều, xếp vào hạng Tứ trụ triều đình. Bốn vị này đều hàm Chánh nhất phẩm, cao hơn cả Thượng thư (hàm chánh nhị phẩm, tương đương bộ trưởng thời nay) và Tổng đốc. Ông chỉ xếp sau Cần chánh điện Đại học sĩ (勤政殿大學士), Văn minh điện Đại học sĩ (文明殿大學士) và Võ hiển điện Đại học sĩ (武顯殿大學士)].
Về Thân thế và sự nghiệp của Cụ Trần Lưu Huệ đã được TS. Nguyễn Đức Nhuệ trình bày rõ ở tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 3 năm 2011:
-Nhân Đức-
Huệ, những ngày mưa tầm tã
______________________________
______________________________
______________________________
______________________________
______________________________
______________________________
______________________________
No comments:
Post a Comment