Nguồn: FB Liên Hương.
2018/02/21.
Có nhiều bạn ở trong và ngoài nước tâm sự rằng họ không tự hào là người Việt. Tôi hiểu mặc cảm đó, nó tới từ sự suy đồi văn hóa, sự nghèo khốn về kinh tế và tụt hậu mọi mặt của đất nước nhưng cũng tới do sự thiếu hiểu biết và thiếu giáo dục đúng. Ở góc độ tâm linh thì không có phân biệt địa lý – tất cả đều là chúng sinh đầu thai tại địa cầu này. Tự thân luân hồi không mang lại giá trị nếu bạn không nhận thức và nỗ lực sống cuộc đời thiện lành. Con người không có tự do chọn nơi chốn ra đời, họ sinh ra trong giống dân nào, ở đâu, từ cha mẹ nào đều do nghiệp. Tôn trọng xuất thân chính là điểm khởi đầu của sự thấu hiểu các định luật tự nhiên. Việc tái sinh trong một giống dân hay trong một gia đình sẽ đưa lại bài học đặc thù, tùy theo cá thể tinh tấn hay bạc nhược mà thúc đẩy tiến hóa hay suy đồi của linh hồn đó và mặc nhiên góp phần vào cộng nghiệp của dòng họ đó, giống dân đó và cả nhân loại.
Nếu sinh ra là người Việt, bạn vẫn có thể mang lại một giá trị cho cá nhân và cộng đồng – vẫn có thể là một người Việt ưu tú. Nếu sinh ra là một người Pháp hay người Phi cũng tương tự.
Các Chân Sư đã dạy về tính nhân loại cho Krishnamurti lúc ông mới 13-14 tuổi, khi đó mồ côi mẹ, sống dưới sự giám hộ của bà Annie Besant và Linh mục Charles Webster Leadbeater. Đây là vấn đề căn bản, huấn luyện cho những linh hồn tiến hóa cao trong tiến trình điểm đạo. Sự mặc khải truyền tâm này được Krishnamurti thuộc lòng và chép lại bằng tiếng Anh mặc dù lúc đó mới học Anh ngữ. Sau đó Linh mục Charles Webster Leadbeater đã đánh máy lại, trình đức Di-lặc và được chấp thuận để giới thiệu với người đời. “At The Feet of The Master” xuất bản lần đầu năm 1910, dưới tên Alcyone [là tên trong một kiếp trước của Krishnamurti]. Nhờ sự giáo dục đúng đắn, các thể của Krishnamurti được phục hồi, hai năm sau, Krishnamurti bắt đầu thuyết giảng và trở thành bậc thầy đặc sắc nổi tiếng nhất thế kỷ XX, thuyết trình các chủ đề không giới hạn, mang tính tổng thể, phi thời gian. Tới cuối đời, Krishnamurti vẫn vừa là người Ấn với bản sắc riêng và những phẩm tính ưu tú của Bàlamôn, vừa là công dân thế giới. Ông duy trì dinh dưỡng chay nghiêm ngặt, tu tập thiền, có sức khỏe minh mẫn đi giảng khắp thế giới, các bài giảng đó hiện lưu trong hơn 60 cuốn sách. Ông được trao tặng Huân chương Hòa Bình của Liên Hợp Quốc năm 1984.
Dù là linh hồn tiến hóa cao cũng phải được giáo dục và thuận theo các quy luật của tự nhiên. Thiên luật bất di bất dịch chứ không thay đổi tùy lúc tùy nơi như luật do con người đặt ra – chính điều này bảo đảm thành công chắc chắn nếu nương theo các định luật tự nhiên. Bạn phải đi con đường tuần tự, phải tiếp đất tốt, học hỏi, có việc làm tạo thiện nghiệp ngay trong đời sống hằng ngày, thanh lọc các tần số ô trược, tự cải biến tâm thức ô nhiễm bạo lực thành phi bạo lực…
Trích “At The Feet of The Master”.
PHẢI PHÂN BIỆT:
Trên thế gian chỉ có hai hạng người: những người hiểu biết và những người không hiểu biết. Duy chỉ có sự hiểu biết mới hệ trọng mà thôi, con người theo tôn giáo nào hay thuộc về giống dân nào là không trọng hệ. Điều thật trọng hệ là hiểu luật Trời, có hiểu biết mới thuận theo lẽ Trời, một lòng làm lành và chống chọi với sự ác, lo giúp cho muôn loài cùng tiến hóa chứ không tư lợi. Người sống thuận lẽ Trời là người một nhà, dầu họ giữ đạo Bàlamôn hay đạo Phật, đạo Thiên Chúa hay đạo Hồi, hoặc là người Ấn, người Anh, người Trung Hoa hay người Nga cũng không thành vấn đề.
Ðừng nhầm lẫn các thể hư hoại của con là Con. Cái Xác, cái Vía, cái Trí không phải thật là Con đâu. Nhưng mỗi Thể đó đều giả vờ xưng là Con để đạt được những điều chúng nó muốn. Con phải hiểu chúng và phải tự biết rằng chính Con là chủ của chúng.
THỂ XÁC:
* Khi có một việc nên làm, Xác lại viện lẽ nó cần nghỉ ngơi, cần đi chơi, cần ăn uống; người chưa hiểu biết tưởng rằng "Tôi cần mấy việc đó nên tôi phải làm mới được"; còn người hiểu biết phân biệt: "Cái xác của tôi muốn mấy việc đó chứ không phải tôi đâu, nó phải đợi".
* Khi có dịp giúp đỡ ai, Xác nghĩ: "Việc đó sẽ phiền mình lắm! Để cho người khác làm". Nhưng người hiểu biết trả lời Xác: "Ngươi không nên cản Ta làm những việc tốt lành".
* Thể Xác vốn là con ngựa cho con cưỡi. Bởi thế, con phải đối đãi với nó cho tử tế và phải săn sóc nó kỹ lưỡng. Phải nuôi nó cho đúng phép với những thực phẩm tinh khiết và giữ gìn cho nó luôn sạch sẽ. Không có xác thân tinh khiết thì không thể nào bước vào đường Đạo.
* Phải chính là con, người luôn luôn điều khiển, kiểm soát Thể Xác chứ không phải là Thể Xác điều khiển sai khiến con.
THỂ VÍA:
Cái Vía có nhiều sự ước ao – lên đến hàng tá; nó muốn thấy con nổi giận, nó muốn thấy con ganh tỵ, tham lam tiền bạc, toan đoạt của cải thiên hạ và ngã lòng rủn chí... Không phải Vía cố ý hại con, mà tại Vía ưa những sự rung động dữ dội và thay đổi liên tục. Trong mấy việc đó con không muốn việc nào cả, bởi vậy con phải phân biệt ý muốn của con với ý muốn của Vía.
THỂ TRÍ:
Cái Trí của con ưa thích kiêu căng chia rẽ, không thích ngó ngàng đến kẻ khác. Dù khi con hướng sự chú ý của con ra khỏi những việc trần gian được rồi, nó còn ráng gom hết về, nó xúi giục con chú ý tới sự tiến hóa riêng của con chứ không lo nghĩ đến công việc của Chân Sư hay giúp đỡ kẻ khác. Khi con thiền, nó cố sức làm cho con nghĩ đến những chuyện lung tung mà nó muốn thay vì chuyện duy nhất mà con muốn. Con không phải là cái Trí đó đâu, nó là một Thể của con, để cho con dùng, con phải canh chừng liên tục, bằng không con sẽ thất bại.
Bức họa "Hoa và mây" của Emil Nolde [1867-1956]
No comments:
Post a Comment