Nguồn: FB Bong Lau.
2018/03/02.
Radar và hệ thống vô tuyến liên tạc trên máy bay tàng hình rất phức tạp, khó hiểu và khó viết. Nhưng xét qua những điều kiện về hình thù của máy bay ta có thể kết luận phần lớn khả năng tàng hình của nó.
Nếu lật ngửa bụng của chiếc F-22 (Hoa Kỳ), SU-57 (Nga) và J-20 (Trung Cộng). Chúng ta thấy động cơ của chiếc F-22 được đặt ở vị trí S hoặc Z nhiều hơn. Ở vị trí này ống hút hơi (intake) không đi một đường thẳng từ trước vào các cánh quạt phản lực. Ống hút hơi đi quanh co hay góc độ sẽ tránh sóng radar nhìn thấy và phản chiếu mạnh lại từ những cánh quạt phản lực bằng kim loại.
Ống thổi phản lực (jet engine muzzle) của F-22 lại nằm sâu trong bụng chớ không lòi ra phía sau như SU-57 và J-20. Bên ngoài ống thổi phản lực của F-22 được che bởi những lá chắn hình tam giác để đánh lệch sóng radar. Trông khi ống phản lực của SU-57 và J-20 hình ống tròn và nằm bên ngoài dễ bị radar nhận diện hơn.
Kỹ thuật tàng hình không chỉ làm vô hiệu hóa sóng radar của địch quân mà phải biết che mắt máy hồng ngoại tuyến của đối phương nữa.
Ống thổi phản lực (exhaust) của F-22 nằm sâu trong bụng nên sức nóng không thoát ra ngoài nhiều nên máy hồng ngoại tuyến IR (inferred) khó tìm thấy. SU-57 của Nga và J-20 của Trung Cộng không có những ưu điểm đó.
Động cơ Pratt & Whitney F119 của F-22 có khả năng bay bình phi (cruise speed) với vận tốc siêu thanh mà không cần đốt thêm nhiên liệu (afterburn) khạc lửa ra sau làm lộ vị trí.
Bay vận tốc siêu thanh không cần đốt thêm nhiên liệu để có thể hoạt động lâu trên nền trời mà vẫn giữ được vị trí tàng hình. Ngoài ra, F-22 đã có nhiều kinh nghiệm chiến trường trong khi đó SU-57 và J-20 chưa từng có một giờ tác chiến. Vì thế F-22 là máy bay săn giặc tàng hình số 1 của Không Lực Hoa Kỳ và thế giới.
______________________________
F-22 (Hoa Kỳ).
SU-57 (Nga).
J-20 (Trung Cộng).
No comments:
Post a Comment